Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử văn hoá Hà Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử văn hoá Hà Nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Đến chùa Bà Đanh ngắm cảnh thanh vắng

Chùa Bà Đanh là một danh thắng của đất Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, từ xa xưa vẫn gắn liền với câu thành ngữ nổi tiếng “vắng như chùa Bà Đanh”. Trên đường tìm đến ngôi chùa này, tôi cứ ngẫm nghĩ và tò mò mãi, không biết chùa Bà Đanh vắng vẻ, hiu quạnh thế nào mà dân gian lại lưu truyền như vậy?

“Vắng như chùa Bà Đanh”
Từ thành phố Phủ Lý rẽ vào quốc lộ 21, đi cầu Quế khoảng hơn 1km, chúng tôi thấy chùa Bà Đanh thấp thoáng hiện ra sau những bóng cây. Ngôi chùa u tịch nhìn ra con sông Đáy trôi chảy hiền hòa. Bến nước của chùa Bà Đanh nằm thoai thoải bên bờ sông, các bậc đá màu xám ngà ngà nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ và dòng nước phẳng lặng như gương.  
Chùa Bà Đanh hiện ra thấp thoáng sau những bóng cây
Con đường nhỏ dẫn vào chùa Bà Đanh rợp bóng nhãn, vải
Đi qua chiếc cầu treo Cấm Sơn khá bề thế bắc qua sông Đáy, vòng lên một đoạn đường đê vắng vẻ, chúng tôi bắt gặp tấm biển bằng đá ghi “Di tích lịch sử văn hoá chùa Bà Đanh và núi Ngọc”.
Chùa Bà Đanh thuộc địa phận thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, cách núi Ngọc khoảng 100m. Từ núi Ngọc và từ chân đê, đi qua những đoạn đường nhỏ vắng lặng rợp bóng vải thiều, nhãn..., du khách sẽ thấy tam quan chùa Bà Đanh hướng về phía con sông Đáy thơ mộng.
Khoảng sân rộng được lát đá trồng nhiều loại cây như đa, hoàng lan, sứ… Những cây bưởi trĩu quả vỏ vàng tươi tắn, những cây táo ta sai quả gợi nên hình ảnh một cuộc sống thanh đạm mà trù phú. Đặc biệt, ngôi chùa trồng một cây đào tiên tán thấp có quả to, tròn và dẹt dẹt như bưởi nhưng vỏ nhẵn thín màu xanh bóng, chi chít đầy cành. 
Cây đào tiên trong chùa
Tam quan ngôi chùa
Một góc sân chùa u tịch
Chùa Bà Đanh gồm nhiều công trình như: nhà bái đường, nhà thượng điện, nhà rung đường, phủ thờ Mẫu, nhà tổ… Trên các cột và vì kèo chạm khắc tinh vi theo đề tài “Ngũ phúc”, “Tứ linh”, “Tùng mã”, “Mai điểu”…
Ngay gần đó là một bến nước lớn uy nghiêm nhưng vắng vẻ, trên các bậc lên xuống của bến nước, lá đa rụng đầy gợi không khí u tịch. Đứng trên bến nước, ngắm nhìn khung cảnh sơn thủy hữu tình, cái lặng yên nhắc cho trái tim mẫn cảm nhớ đến câu thơ của Trần Đăng Khoa: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”.

Ngôi chùa của những truyền thuyết dân gian
Chùa Bà Đanh có tên chữ là Bảo Sơn tự, ngoài thờ Phật còn thờ Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào, Bắc Đẩu và Tứ Pháp trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam (bao gồm Pháp Vân - mẹ Mây, Pháp Vũ - mẹ mưa, Pháp Lôi - mẹ Sấm, Pháp Điện - mẹ Chớp).
Lịch sử xây chùa Bà Đanh gắn liền với nhiều truyền thuyết lạ kỳ như tích về mẹ Phật Man Nương – được cho là nguồn gốc của Tứ Pháp – vốn lưu truyền rộng rãi ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. 
Một toà nhà trong tổng thể kiến trúc chùa Bà Đanh
Đến chùa Bà Đanh, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo
Bến nước chùa Bà Đanh nằm bên con sông Đáy hiền hoà lá đa rụng đầy
Con rồng đá nơi Tam quan
Tượng Bà Chúa Đanh được thờ trong chùa tương truyền là một người con gái được các Thần phái về để trông coi vùng này. Từ khi nhân dân trong vùng xây xong chùa thì sản xuất thuận lợi, không còn thiên tai mất mùa, đời sống trở nên đầm ấm, trù phú. Do đó, trong tâm thức dân gian Bà Chúa Đanh chính là vị thần mùa màng, phù hộ cho nông nghiệp.
Nhiều người kể rằng do chùa Bà Đanh quá linh thiêng nên khách thập phương cũng ít dám ghé qua vì sợ nếu thất lễ sẽ bị trừng phạt. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng chùa ở xa khu dân cư, cách trở núi sông, giao thông không thuận tiện nên ít người lui tới. Dù giải thích thế nào thì dường như nguồn gốc câu thành ngữ “Vắng như chùa Bà Đanh” vẫn là một bí ẩn!
Theo nld.com.vn


Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2012

Đền Bà Vũ (Chân Lý - Lý Nhân)

Đền Bà Vũ nằm ngay sát ven bờ sông Hồng ở phía bắc xã Chân Lý. Từ thành phố Phủ Lý theo đường 971 về thị trấn Vĩnh Trụ, đi tiếp ra Cầu Không, rẽ trái lên Vũ Điện theo đường Phú Trạm là đến di tích.


Đền thờ bà Vũ Thị Thiết, người con gái phủ Nam Xang đã sớm được chép vào sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Chuyện kể rằng, ở trang Vũ Điện, phủ Nam Xang có một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết, vợ chàng Trương sinh là người cùng làng. Mới lấy nhau được ít lâu thì chàng Trương phải ra trận dẹp giặc. Nàng sinh được một đứa con trai tên là Đản. Để dỗ con, tối đến, nàng chỉ lên cái bóng trên vách và bảo với con đó là bố. Khi Trương Sinh trở về, đứa bé không chịu nhận bố, nói rằng có một ông bố khác tối mới đến chơi. Trương Sinh ngờ vực vợ có tư tình với ai thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mắng nhiếc vợ thậm tệ, không để vợ giãi bày. Nàng Vũ ôm mỗi oan không thể tỏ bày ra sông tự vẫn.

Tối đến, thấy con chỉ cái bóng trên vách bảo đó là bố, Trương Sinh mới biết mình nhầm, hối không kịp nữa. Chàng lập đền giải oan cho vợ ở bến sông, nơi nàng vừa tự tận. Dân làng thương tiếc người con gái nhân hậu của quê hương cũng lập đền thờ nàng. Ngôi đền rất linh thiêng.

Tương truyền, đền bà Vũ đã từng âm phù cho đại quân của vua Lê Thánh Thông thắng trận. Khi đại quân khải hoàn, nhà vua xuống chiếu cho quan dân địa phương Vũ Điện sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Thuyền bè qua lại vùng sông nước này thường đến lễ ở đền bà để xin bà phù hộ cho thuận buồm xuôi gió. Ngôi đền linh thiêng với câu chuyện thương tâm của bà Vũ đã từng là đề tài cho biết bao thi nhân như Lê Thánh Tông, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến…

Những lời thơ của các thi nhân đã nói hộ lòng thương tiếc, ước muốn giải oan cho người phụ nữ chịu nhiều đau khổ, mối đồng cảm sâu sắc của người đời đối với nỗi oan trái hãy còn dằng dặc ở trên đời và lòng ngưỡng mộ đối với moọt tấm gương trinh liệt. Phải chăng vì thế mà ngôi đền thờ bà đã và vẫn sẽ còn có sức thu hút mối quan tâm của nhiều vãn khách xa gần.

Theo truyền thuyết của người dân địa phương thì ngôi đền này được xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái chết oan uổng của bà Vũ. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ nứa lá tranh tre do dân địa phương dựng nên. Sau khi có chiếu của vua Lê Thánh Thông, ngôi miếu mới được sửa lại thành một ngôi đền bề thế, khang trang. Ban đầu, ngôi đền được xây dựng ngoài bãi ven sông Hồng, trên một bãi đất rộng mấy chục mẫu, dân cư sống thành làng. sau vì nước lũ xói mòn, bãi bị lở nên đền phải dời vào vị trí như hiện nay.

Đền áp sát vào khu vực đê bối ven sông Hồng. Bốn cột đồng trụ xây ngay trên mặt đê, mặt quay ra sông theo hướng Bắc, cao vượt tầm những cây cổ thụ xung quanh. Sân đền nằm dưới chân đê bối, phải qua 6 bậc mới xuống được. Giữa hai cột đồng trụ là cổng chính, hai bên là hai cổng phụ tấm mái cửa vòm. Đền được kiến trúc theo kiểu chữ tam khép kín, đằng trước là 7 gian tiền đường với hệ thống vì kèo biến thể giá chiêng chồng rường con nhị.

Công trình này trốn cột, các xà đều gác lên tường. Hai đầu hồi bít đốc, mái lợp ngói nam. Ba gian giữa có hệ thống cửa gỗ lim bức bàn, phần trên cửa là chấn song con tiện. Khu trung đường làm cao lên hẳn theo kiểu chồng diêm gồm hai tầng mái, mỗi lớp 4 mái có đao góc uốn cong, mái được lợp bằng ngói vẩy. Mặt trước ba gian chính tẩm là hệ thống cửa bức bàn. Công trình được khép kín bởi hai dãy nhà 3 gian nối khu chính tẩm với khu trung đường, dãy nhà 3 gian ở phía tây khu trung đường và bức tường xây phía đông khu trung đường nối với tòa tiền đường. Ngôi đền chắc chắn đã trải qua nhiều lần trùng tu, hiện nay đền mang phong cách kiến trúc của thế kỷ XIX.

Đền còn giữ lại được một số hiện vật quý. Chẳng hạn ở đây còn giữ được chiếc khánh thời Lê Trung Hưng, nó được đúc vào năm Kỷ Mão niên hiệu Chính Hòa năm thứ 20 (1699), quả chuông đồng đúc vào thời Tây Sơn, năm Cảnh Thịnh cửu niên (1801), pho tượng đồng tạc bà Vũ không rõ niên đại.